Tuesday, July 13, 2010
Những người bạn của tôi hiện giờ bạn đang ở nơi đâu
Sự Nguy Hiểm Khi Vượt Biên Tìm Tự Do Bằng Đường Bộ - Kim Hà
WEDNESDAY, MARCH 26, 2008
Sự Nguy Hiểm Khi Vượt Biên Tìm Tự Do Bằng Đường Bộ - Kim Hà
Trong cuộc hành trình tìm tự do, người tị nạn đường bộ đã chịu đựng trăm cay ngàn đắng. Họ bị bỏ rơi để rồi chết tức tưởi, không một nấm mồ chôn thân. Họ đã bị giam cầm, hành hung, tra tấn, đánh đập, rồi bị bọn lính thổ phỉ cướp của dọc đường hay các lực lượng lính người Cambodia dùng bạo lực để cưỡng hiếp tập thể, và bị giết chết một cách oan ức và dã man tại vùng lãnh thổ xứ Cambodia và nơi các trại tị nạn nơi vùng biên giới Thái-Cambodia.
Kể từ năm 1979, khi phong trào trốn qua biên giới Cambodia để buôn lậu rất thịnh hành thì hàng ngàn người tị nạn Việt nam đã trốn đi thoát để đến tị nạn tại vùng biên giới Thái và Cambodia. Nhưng cũng từ đấy, hàng ngàn thảm cảnh bi đát đã diễn ra từng ngày. Những câu chuyện nói về người Việt Nam chết trên đường tìm tự do đã, đang và sẽ tạo thành một giai đoạn lịch sử bi hùng và thống hận cho lịch sử và văn hoá thời đại của thế giới vàViệt nam sau này.
Trong ba mươi năm nay, thảm cảnh này đã được nói đến rất nhiều bằng sách báo, truyền thanh, truyền hình, bằng lời thư thống thiết. Tuy vậy, tệ nạn này tiếp diễn hàng ngày bởi các lực lượng Khmer Đỏ (Pol Pốt), lực lượng kháng chiến chống chính quyền Cộng sản Việt nam, thường được gọi là Para của các lãnh tụ Sihanouk, Son Sann hay Lon Nol.
Theo lời kể của các nhân chứng Việt nam còn sống sót tại Mỹ quốc thì người tị nạn đường bộ bị đối xử tàn tệ hơn những súc vật. Họ bị giết chết bằng đủ mọi cách dã man và mọi rợ:
Có người bị lính Para hay Pol Pot dùng búa đập vào đầu đến lòi óc. Có người bị chúng chặt đầu bằng ngọn mác hay chiếc rìu chặt củi. Người khác bị chúng buộc leo lên cây cao để rồi cả bọn chúng xúm lại rung cây cho nạn nhân rớt chết. Người nào sợ chạy trốn thì bị bọn đồ tể ấy lấy dao mổ bụng rồi móc buồng gan ra sào nấu để chúng ăn. Bộ mật của nạn nhân thì bị treo trên hàng rào gai thép để làm gương cho những người còn muốn chạy trốn.
Rất nhiều người khác thì bị bắn giết, thân xác họ bị vùi giập ở những hố cạn đào vội vàng ở một góc rừng hoang. Những người khác thì bị chúng dùng roi và gậy đánh cho đến chết chỉ vì đã chậm chân vác gạo đi theo sau mọi người.
Có những người thanh niên bị chúng bắt buộc phải đi gỡ mìn và đào hầm chông cho chúng. Nếu ai không có kinh nghiệm gỡ mìn thì bị mìn nổ chết banh xác. Nếu ai may mắn gỡ được một lần thì những lần sau thể nào cũng bị chết không toàn thân. Có người vì quá sợ nên sau đó đâm ra cuồng trí và hoá điên dại.
Nếu nạn nhân là phụ nữ thì còn bị nhiều tai họa hơn. Họ thường bị hãm hiếp tập thể bởi những quân lính Para hay Pol Pot mà tuổi chúng chỉ mới độ chừng mười ba hay mười bốn tuổi mà thôi. Những kẻ mặt người lòng thú này đã coi thân xác phụ nữ như một món trò chơi để giúp chúng tiêu khiển cho lấp đầy những giây phút thiếu vắng giống cái ở trong rừng hoang vu biên giới.
Trước khi hãm hiếp, chúng thường làm thủ tục chọc tức như mèo vờn chuột trước khi ăn thịt con mồi ngon lành ấy. Có cô gái bị chúng dùng súng nhắm bắn sớt qua hai tai để cho nạn nhân rú lên vì sợ hãi. Hễ nạn nhân càng khóc la thì bọn chúng càng cười sằng sặc và khả ố. Sau đó, chúng đè nạn nhân trên đất rồi căng hai tay và hai chân nạn nhân ra, chúng cấu xé, cắn nát rồi mới hành lạc tập thể. Chưa hết, chúng còn dùng roi đánh vào nhũ hoa, hay lấy đèn pin, vỏ chai Coca Cola hoặc báng súng để nhét một cách hung bạo vào cửa mình của nạn nhân.
Có những trường hợp vợ chồng cùng đi vượt biên với nhau. Trong khi bọn lính Para hay Pol Pot dùng bạo lực để cưỡng hiếp người vợ thì chúng hạ nhục người chồng bằng cách bắt ông ta quỳ xuống. Rồi sau đó, chúng trói gô ông lại, rồi để một cái mác nơi ót của ông ta để cảnh cáo cho ông biết là chúng sẽ chặt đầu ông nếu ông ta kháng cự hay chống đối.
Thế rồi, khoảng hai chục tên lính người Cambodia đã đua nhau hãm hiếp bà vợ và cười đùa một cách khả ố và bỉ ổi. Người chồng phải chứng kiến những tiếng la hét đau đớn của vợ mình cùng với cảnh vợ bị làm nhục. Nếu ông lên tiếng chửi rủa hay thóa mạ chúng thì chúng sẽ giết chết ông bằng mác hay bằng súng ngay.
Lại còn những trường hợp có những người phụ nữ đẹp, sau khi bị hãm hiếp còn bị giữ lại ở trong các làng Pol Pot hay trại Para để làm vợ hờ cho một trong những tên chỉ huy. Cô sẽ không bao giờ đến được bến bờ tự do và suốt đời làm nô lệ cho lãnh chúa của cô.
Có những cô khác kém may mắn hơn thì bị giam cầm và bị ”thẩm vấn” vào những buổi tối với hàng chục tên lính dã man. Chúng hãm hiếp cô liên tiếp cho đến khi cô kiệt lực mà bịnh rồi chết.
Những thanh niên khỏe mạnh và cường tráng thì bị giam giữ tại các làng và các khu trại để đi làm lao công tạp dịch cho chúng, chẳng hạn như phải đào hầm chống xe tăng, gỡ mìn, làm hố chông, đào cầu tiêu công cộng hay phải gỡ mìn dù rằng họ chẳng hề có kinh nghiệm gì cả. Các cậu phải đi tải gạo, họ phải khiêng từng bao gạo nặng và đi thật xa dưới cái nắng thiêu cháy của vùng nhiệt đới.
Nói chung, dù là bọn lính Pol Pot hay bọn lính Para thì chúng đều tỏ ra dã man, độc ác và vô nhân tạo như nhau. Chúng làm nhục người phụ nữ Việt Nam và xem họ như thú vật. Đa số phụ nữ Việt khi đã quyết định đi bằng đường bộ là họ đã thấy rõ và chấp nhận chuyện nguy hiểm trên đường đi rồi. Nhiều phụ nữ khôn khéo thì khi bị hãm hiếp, họ làm bộ thích một trong đám lính man rợ đó để được yên thân, khỏi bị cả bọn hành hạ nữa. Còn những người khác không biết thì bị tập thể hành hạ, có khi họ không còn sức để đi nổi nữa.
Lối hành hạ của Pol Pot và Para đều như nhau: bắt trói thúc ké nạn nhân, lên súng dọa bắn chết, bắt nạn nhân cởi quần áo rồi chổng mông lên cao để bọn chúng thò tay móc hậu môn và chỗ kín. Tay chúng kịch cợm nên khi chúng móc mạnh thì nạn nhân đau vô cùng.
Các người tị nạn bị xét đến cả trăm lần, bất cứ một đứa con nít Pol Pot hay Para mất dạy nào cũng có thể làm phiền mình được. Rồi sau đó, chúng mò xét cả quần áo, giày dép và các đồ vật dụng khác để moi vàng.
Cái dã man nhất của bọn Pol Pot là chúng bắt dân tị nạn Việt làm lao động khổ sai cho chúng. Về chế độ ăn uống thì chúng cho dân tị nạn ăn không đủ nên họ phải nấu cháo mà ăn cho đỡ đói.
Tại khu trại của Pol Pot có một vũng nước nhỏ, đồng bà otị nạn phải ăn uống, tắm giặt, nấu cơm cũng từ nước ở vũng lầy đó. Vào những ngày mưa thì nước từ các vùng có phân người cũng chảy luôn xuống vũng nước ấy. Nhưng người tị nạn vẫn phải uống nước ấy như thường vì không còn lựa chọn nào khác.
Những thảm trạng vừa kể trên đã làm đau lòng những người còn có lòng nhân đạo. Với tích cách là một người tị nạn đường bộ vào năm 1980, vừa là nạn nhân vừa là người chứng, chúng tôi đã không ngừng vận động để đưa tiếng kêu cứu của đồng bào tị nạn Việt nam đến thế giới tự do.
Trong suốt sáu năm dài (1980-1986), chúng tôi đã tìm kiếm, phỏng vấn và ghi lại những câu chuyện thương tâm của các người tị nạn Việt Nam, ở các trại tị nạn đường bộ khác nhau. Loạt bài này đã được đăng trên báo Tin Việt vào những năm 1984,1985 và 1986.
Viết xong vào năm 1986, sau đó tôi lại nhận được hàng trăm lá thư viết tay của dồng bào từ một số trại tị nạn gửi về. Từ đấy, tôi vẫn mong mỏi có dịp được xuất bản tác phẩm này vì nó là một chứng liệu hùng hồn nói lên nỗi cơ cực và niềm đau khổ của người tị nạn Việt nam. Họ đã hy sinh tất cả để đổi lấy tự do. Họ ra đi vì muốn tìm lại quyền làm người, không phải vì lý do kinh tế.
Ước vọng lớn nhất của chúng tôi là tác phẩm này có thể giúp cho các thế hệ con cháu hay những người ngoại quốc hiểu thật rõ về một giai đoạn lịch sử đặc biệt không tiền khoáng hậu của người Việt chúng ta trên đường đi tìm kiếm tự do và nhân quyền.
Trong cộng đồng của chúng ta, đã có nhiều tài liệu viết về thảm trạng của người tị nạn đường thủy, nhưng rất ít tài liệu viết về thảm trạng của người tị nạn đường bộ. Mong rằng những cố gắng của chúng tôi sẽ để lại một ít tài liệu lịch sử về người tị nạn đường bộ cho ngày sau.
Cuối tháng sáu 1996,việc cưỡng bách hồi hương đã kết thúc với việc Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR) rút đi và cắt giảm toàn bộ sự giúp đỡ bằng vật chất và tinh thần. Chúng ta đã thấy nhiều người tị nạn can đảm mổ bụng tự thiêu, thắt cổ hay tự tử để phản đối sự đối xử tàn bạo và vô nhân đạo của một số các quốc gia vùng Đông Nam Á. Những cái chết bi thương nhưng oai hùng ấy là những bằng chứng hùng hồn cho thế giới thấy người Việt thà chết hơn là sống mất tự do.
Trong quá khứ, đã có hàng chục ngàn đồng bào bị ép lên máy bay hay tàu thủy để trở về cố hương cho dù tính mạng của họ có thể bị đe dọa. Thế giới đã ngoảnh mặt đi dù rằng các cộng đồng người Việt trên khắp thế giới đã tích cực tranh đấu chống lệnh cưỡng bách hồi hương. Người Việt Nam đã biểu tình đòi quyền sống cho đồng bào mình tại các tòa Đại sứ của các quốc gia liên hệ. Người Việt đã dến tòa Bạch Ốc để kêu cứu cho đồng bào mình.
Việc làm tốt đẹp của người Việt trên thế giới đã có kết qủa rực rỡ. Chính phủ và Giáo hội Thiên Chúa giáo Phi Luật Tân đã quyết định cho khoảng hai ngàn đồng bào tị nạn Việt nam được ở lại sinh sống tại đất nước của họ. Đây là một thắng lợi to lớn, không những cho người tị nạn mà còn cho tất cả người Việt ở khắp nơi trên thế giới. Đoàn kết nhất trí, kiên trì tranh đấu, chúng ta đã thắng.
Đối với người ngoại cuộc, chúng ta đã chứng tỏ sức mạnh của sự đồng tâm và lòng nhân ái đối với đồng bào. Ngoài ra, việc làm tích cực của chúng ta còn mang một tầm vóc quan trọng khác: tạo dựng một tương lai tươi sáng cho dân tộc qua việc nuôi dưỡng những thiếu nhi trong số hai ngàn người tị nạn ấy.
Cho dù chương trình cứu giúp người tị nạn Việt nam không còn nữa nhưng vấn đề tị nạn sẽ không bao giờ chấm dứt. Nó đã bắt đầu từ ngàn xưa, tại mọi quốc gia. Điển hình là Thiên Chúa khi vừa lọt lòng mẹ đã là một người tị nạn đường bộ khi cha mẹ Ngài phải chạy trốn sự truy nã của một ông vua ích kỷ và độc ác. Những người hành hương (Pilgrims) tiên phong từ Anh quốc đến Mỹ quốc trên chiếc tàu Mayflower trong mấy thế kỷ trước đã là những người tị nạn đường thủy.
Trong ba mươi năm gần đây, ngoài những người tị nạn người Việt nam, Lào và Cambodia còn có người tị nạn đến từ lục địa Trung quốc,từ Cuba, Kuwait, Haiti, Rwanda và nhiều nơi khác trên thế giới. Vấn đề tị nạn chỉ chấm dứt được khi nào xã hội hết bất công, lòng tham bị diệt trừ, quyền làm người được tôn trọng, lòng nhân ái và sự công bằng được thể hiện từ gia đình dến quốc gia và thế giới.
Hai mươi năm sau khi hoàn tất thì tác phẩm Vượt Biên Đường Bộ Tìm Tự Do mới được ấn hành và ra mắt quý độc giả (1986-2006). Xin quý vị cùng chúng tôi thắp nén hương lòng cầu xin ơn siêu thoát cho các nạn nhân bất hạnh, và cho dân tộc Việt Nam của chúng ta được bình an.
Kim Hà
30/4/2006
Hồi Ký Của Ông Lê Tấn Lý
FRIDAY, SEPTEMBER 26, 2008
Hồi Ký Của Ông Lê Tấn Lý - Phần 1
Cuộc Hành Trình Vượt Biên Bằng Đường Bộ Từ Việt Nam Qua Thái Lan.
Ông Lê tấn Lý vượt biên bằng đường bộ cùng với hai con trai. Ông cùng hai con đến trại Non Chan, sau đó qua trại NW 9,rồi trại Panatnikhom và một vài trại khác trước khi đến Hoa Kỳ vào tháng 7, năm 1981.Ba cha con tôi ra đi từ Sàigòn vào ngày 2 tháng 4, năm 1980. Mỗi đầu người phải trả bốn lạng vàng cho ban tổ chức. Tôi bắt liên lạc với đoàn xe vận tải chuyên chở gạo từ Sàigòn đến Battambang ở Cambodia.
Tổ chức này làm giấy giả cho tôi để giả dạng làm lơ xe và phu khuân vác gạo. Đoàn xe này khi rời Sàigòn đến Nam Vang thì có mười lăm chiếc. Nhưng từ Nam Vang đến Battambang thì chỉ có ba chiếc xe thôi. Vì thế, con đường đi của chúng tôi rất gian nan và nguy hiểm. Lý do chính là nếu đi mười lăm chiếc thì dễ trà trộn hơn là chỉ có ba chiếc thôi.
Khi tới Nam Vang thì xe vận tải đậu ở ngoại ô thành phố. Chúng tôi ở tại đây được hai ngày. Sau đó thì đi Battambang. Tới Battambang, chúng tôi sợ luôn những người tổ chức trong đoàn xe vận tải ấy. Lý do vì họ không phải là người nhận tiền của chúng tôi.
Người nhận tiền vì lý do nào đó đã kẹt ở Sàigòn, nên anh ta giao chúng tôi cho một nhóm người khác để họ đưa chúng tôi đi. Nhóm này hỏi chúng tôi có vàng thêm thì đưa cho họ. Dù trong túi còn vàng, chúng tôi vẫn làm bộ hết tiền để khỏi chi thêm cho họ.
Vì thế, họ để cho nhóm lính kiểm soát thẳng cánh xét hỏi chúng tôi mà họ không hề binh vực chúng tôi điều gì. Trên đoạn đường đi từ Nam Vang đến Battambang dài độ hai trăm năm mươi cây số, mỗi lần gặp trạm kiểm soát, chúng tôi phải đưa giấy tờ giả ra cho họ xem. May mắn là qua thoát được hết cả. Chúng tôi run sợ trong suốt cuộc hành trình đó.
Khi đến Battambang, cha con tôi rời ngay đoàn xe vận tải để tìm đến địa điểm hẹn mà người trong ban tổ chức đã chỉ dẫn. Chúng tôi đến được một quán ăn có bán hủ tiếu và nước ngọt. Nơi đây, tôi gặp người dẫn đường là một người Miên nhưng có vợ là người Việt Nam. Ông này nói tiếng Việt rất giỏi. Ông ta đưa chúng tôi đi từ Battambang đến Sisophon bằng xe mô tô ba bánh, kiểu xe thồ.
Dọc đường, có hai trạm kiểm soát của người Miên, chúng tôi cũng giả làm người Miên nên đi qua trót lọt. Đến thành phố Sisophon, người dẫn đường dắt chúng tôi vào nhà một người quen để ăn uống và chuẩn bị cho cuộc đi bộ vào ban đêm. Họ nói từ Sisophon đến biên giới Thái độ chừng tám mươi cây số. Nhưng tôi tính ra thì chỉ độ khoảng năm mươi hay sáu mươi cây số mà thôi.
Chúng tôi nhập bọn với bảy người đàn ông trai tráng nữa . Trong số ấy cũng có người lớn tuổi như tôi, cỡ trên năm mươi tuổi. Thế là chúng tôi đi bộ trong rừng mà không có đường mòn. Mỗi lần đi phải vạch cây lá mà đi.
Từ Sisophon đến Non Chan, chúng tôi phải đi trong bốn đêm. Cứ tối, độ 7:00 giờ hay 8:00 giờ tối là bắt đầu đi cho đến độ 5:00 giờ sáng thì được nghỉ. Thường thì người dẫn đường dắt chúng tôi gửi vào nhà người quen để khỏi bị lộ, và để ăn uống và ngủ lấy lại sức, chờ đến tối thì đi tiếp.
Tối đến thì chúng tôi lại được giao cho một toán dẫn đường khác. Như thế họ cứ thay đổi người dẫn đường mãi. Nhờ chúng tôi đi số đông, hết thảy là mười người đàn ông nên chúng tôi bênh vực và bảo vệ cho nhau, do đó những kẻ dẫn đường dù có tà tâm cũng không thể giết chúng tôi được.
Sau ba đêm, đến một chỗ vắng, chúng tôi bị giao cho một nhóm dẫn đường khác. Nhóm người này cầm búa và rìu trông vẻ mặt thì dữ tợn và bất lương. Họ đưa chúng tôi vào rừng rồi bắt cởi hết quần áo để họ xét và ăn cướp tất cả.
Lúc đầu họ còn nói ngọt ngào để chúng tôi viết giấy về gia đình nói là đã đến biên giới rồi. Như quy ước, nếu đến nơi, nếu như viết đúng nội dung mật hiệu đã quy định thì người nhà tôi mới giao đủ số vàng còn lại. Tôi đã dùng mật hiệu báo cho vợ tôi biết là tôi chưa đến nơi. Chứ nếu không viết thư thì chúng làm khó dễ và bỏ rơi mình.
Ở tại khu rừng ấy, có lẽ chỉ cách trạm gác của Bộ đội Việt Nam độ vài cây số, thì bọn cướp này cướp tất cả mọi thứ của cải của chúng tôi. Khi chúng tôi vùng vằng phản đối thì bọn chúng dọa sẽ tố cáo với Bộ đội Việt Nam để chúng tôi bị bắt.
Vì thế, chúng tôi nghi là bộ đội Việt nam chắc là ở không xa nơi này là bao. Bọn chúng cướp tất cả những quần áo lành lặn mà chúng tôi đang mặc trên người. Khi thấy chúng tôi trần truồng, trông khó coi qúa thì chúng bèn vứt cho chúng tôi vài cái quần đùi, vài cái áo rách rưới và hôi hám, và vài khăn quàng của người Miên.
Lúc ấy, chúng tôi thấy cái chết trước mắt, không còn cách gì mà đến được biên giới nữa rồi. Chỉ còn một hy vọng mong manh làkhi bọn hắn đã lấy khá nhiều vàng, đồng hồ và quần áo rồi, chắc là chúng sẽ tiếp tục dắt mình đi nữa.
Khoảng 7:00 giờ tối, bọn cướp bèn dùng đèn pin dắt chúng tôi đi tiếp độ hơn nửa cây số. Đến một lộ đất, chúng nói gạt chúng tôi rằng chỉ còn có hai cây số nữa là đến trại của quân Kháng Chiến chống Cộng sản Việt nam, đó tức là lực lượng Para. Nghe như vậy, chúng tôi rất nôn nóng và thèm khát được đến đó vô cùng.
Khi vừa ra khỏi lộ đất thì bọn chúng tắt đèn và rút lui mất dạng hồi nào mà chúng tôi không hay biết. Chỉ còn mười người chúng tôi tiếp tục lần mò đi theo hướng mà chúng đã chỉ. Đi độ chừng một cây số thì con tôi là cháu Tiến bị xỉu ngay tại chỗ mà không còn đi được nữa. Có lẽ Tiến bị xáo trộn tinh thần qua việc bị cướp bóc mà xỉu.
Tôi bèn yêu cầu cả đoàn ở lại nghỉ mệt để chờ con tôi bớt mệt rồi cùng đi tiếp. Ban đầu, bọn họ làm thinh. Sau đó, họ bàn bạc và quyết định để ba cha con tôi ở lại, còn họ đi tiếp vì họ không thể vì một người xỉu để mà ở lại hết.
Thế là họ chào chúng tôi và tiếp tục lên đường vào lúc độ 9:00 giờ tối. Buồn tủi và bàng hoàng, ba cha con tôi đành ở lại vì không còn đi được nữa. Chúng tôi đi sâu vào trong rừng, rồi đạp cỏ tranh dẹp xuống để làm thành một chỗ mà nằm ngủ tạm. May là không bị rắn cắn trong đêm ấy.
Đêm đó, tôi sợ hãi mà không dám ngủ, trong khi hai cậu con trai của tôi ngủ say và ngáy vang trời. Vốn là sĩ quan của chế độ VNCH, tôi đã biết cách di chuyển ở những vùng biên giới nguy hiểm. Lại nữa, tôi nghĩ rằng nơi đây là vùng ranh giới, nơi có nhiều lực lượng quân sự khác nhau như quân đội của Cộng Sản Việt nam, của Cộng Sản Miên, của lực lượng Kháng chiến, và của Khmer Đỏ tức là Pol Pot. Ngoài ra, còn có lực lượng du kích hoạt động về đêm và cả dân buôn lậu nữa.
Chính vì tính cách đa dạng và nguy hiểm của vùng biên giới, bởi bất cứ lực lượng nào cũng có thể bắn mình nếu họ khám phá ra có bóng người di chuyển. Vì vậy tới đây, ta không thể di chuyển ban đêm được nữa, mà phải di chuyển vào ban ngày để bảo đảm sự an toàn hơn.
Sẵn dịp Tiến bị xỉu, tôi phải chờ đến lúc rạng đông có mặt trời lên để biết hướng tây mà đi. Tôi nghĩ mình cứ chực chỉ hướng tây thì thể nào cũng đến được biên giới Thái. Lúc ấy tôi cũng chưa biết gì về lực lượng lính Para cả.
Sáng 10 tháng 4, năm 1980, lúc đi dọc đường, chúng tôi thấy từ xa có đoàn xe bò từ biên giới về, nên cha con tôi lại nhảy vào bụi rậm để trốn núp. Đoàn xe đi ngược lại hướng chúng tôi đang đi. Khi họ đi qua, chúng tôi thấy trên xe bò chỉ có đàn bà và con nít chứ không có vũ khí. Biết họ chỉ là dân lành nên tôi cũng yên tâm. Tuy nhiên chúng tôi cũng chờ họ đi qua một đoạn khá xa rồi mới đi tiếp nữa.
Vì thế nên chúng tôi đi rất lâu. Độ một tiếng sau, tôi quay lại dặn hai con:
- Ba đã lớn tuổi rồi có chết cũng được, không sao cả. Còn hai con còn trẻ, chết sớm tội nghiệp lắm. Bây giờ ba đi trước, còn tụi con đi sau khoảng vài trăm thước. Nếu thấy ba bị bắt thì tụi con phải nhảy vào rừng trốn ngay, chứ để bị bắt chung cũng không có lợi gì. Rồi từ từ, các con đi sau. May ra thì cũng tới nơi!
Các con tôi không chịu, chúng sợ tôi đi một mình nguy hiểm nên chúng cứ đi theo sát tôi. Vì thế tôi lại càng phải cẩn thận hơn. Đi độ một lúc nữa, chúng tôi vì khát qúa mà lại ở trong rừng khô, không có nước, nên chúng tôi phải đi tiểu vào bi đông để uống lại nước tiểu của mình.
Một chập, chúng tôi thấy bóng năm, sáu người đi bộ từ đàng xa. Họ đang gánh một cây sào dài, trên đó có bao gạo, sô nước và đồ dùng. Chúng tôi lại trốn núp chờ họ đến gần. Biết chắc là nếu gặp họ thì cũng không có gì nguy hiểm, nên tôi bèn nhảy ra chận họ lại để xin nước uống. Ban đầu họ nghi ngờ tôi, mà tôi cũng sợ họ.
Sau họ thấy tôi ra dấu muốn xin nước uống, họ liền cho tôi uống ngay. Tôi bèn đổ bi đông nước tiểu để xin họ cho một bi đông nước uống. Họ cũng vui vẻ cho tôi nước. Trông họ rất thật thà và tử tế, khác hẳn với những người Miên cầm quân và những kẻ dẫn đường đã cướp hết của cải của chúng tôi. Lũ người kia thật là ác độc và tham lam.
Vừa khi ấy, hai con trai tôi lững thững từ trong rừng bước ra. Tôi đưa tay chỉ con đường phía trước và hỏi họ:
”Xiêm?”
Họ bèn gật đầu và hỏi tôi xem phía sau lưng tôi có Bộ đội Việt Nam hay không? Họ nói được bốn tiếng ”Bộ đội Việt Nam” bằng tiếng Việt. Chúng tôi hỏi đường rồi tiếp tục đi nữa.
Đi chừng vài cây số thì đau đớn thay, chúng tôi thấy xác chết của bảy người bạn đồng hành trên chuyến đi ấy. Đây là những người bạn đã từ giã chúng tôi để ra đi đêm hôm trước. Họ bị giết chết bằng súng vì chỉ nhìn các vết thương của họ, chúng tôi cũng đoán được.
Thường thì người Miên giết người bằng giáo mác hay dao búa, nhưng bảy người này bị bắn chết. Có lẽ họ bị một trong các lực lượng chiến đấu bắn chết. Nạn nhân không nằm gần nhau: Bốn người thì nằm cách gần nhau, còn ba người kia thì nằm chết cách xa đó độ hai trăm thước. Có lẽ họ đã chạy được mà bị đuổi theo để bắn chết.
Tôi không thể gom họ lại và chôn xác họ được, mà chỉ biết van vái cho họ giúp chúng tôi đến nơi chốn bình yên. Chỗ họ chết chỉ cách biên giới Thái chừng mười lăm cây số mà thôi! Ôi, giá của tự do qúa đắt! Họ đã trả giá bằng chính mạng sống của chính mình! Định mệnh thật đáng sợ. Tôi chợt nhớ đến số phận mình. Nếu Tiến không xỉu đêm ấy, chắc ba cha con tôi cũng chịu chung số phận bất hạnh như họ rồi.
Thế rồi chúng tôi lại đi tiếp, mỗi lần gặp những người đi ngược chiều với mình, thì đó là những người đi buôn lậu và xin gạo từ Miên về, là chúng tôi hỏi tiếp đường đi. Đến khoảng 10:00 giờ sáng thì chúng tôi gặp một người đàn ông Miên đang đi ngược chiều với chúng tôi, tay anh ta cầm chiếc búa đẽo cây.
Một điều lạ lùng là khi anh ta thấy chúng tôi thì vội xoay người lại để đi cùng chiều với chúng tôi. Dáng vẻ anh như đang suy tính điều gì quan trọng. Chừng như anh ta là quân thám thính và đang muốn trở về báo cáo với cấp trên về sự hiện diện của ba người lạ mặt là chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi sợ hãi vô cùng. Muốn chạy mà chạy cũng không được. mà muốn trốn thì sợ họ nghi. Tôi còn một niềm hy vọng là sớm gặp các lực lượng binh sĩ chống Cộng.
Đi khoảng nửa cây số thì tôi gặp một đám lính tóc dài, mặc quần áo dù rằn ri như quân phục của Quân đội VNCH ngày xưa. Tôi mừng thầm vì nghĩ rằng họ là lực lượng chống Cộng Sản, tức là đồng minh của mình. Bọn họ chận chúng tôi để lục xét tiền bạc và quần áo. Con trai tôi là Nhân còn giữ được một miếng vàng nhờ nó kẹp giữa bó vải bó cái chân bị sưng phồng.
Thế là họ cướp miếng vàng ấy và dặn chúng tôi khi vào trong trại Para thì không được khai là đã bị họ cướp vàng. Nếu khai đã bị họ cướp thì họ sẽ giết chúng tôi ngay. Cũng may là chúng tôi còn chút vàng để cho họ cướp thì họ mới cho đi ngay. Còn nếu không, chúng tôi không biết sẽ bị đối xử ra sao.
Sau đó, đám lính Para này cho chúng tôi vào trại Para. Tại văn phòng của lực lượng nàycó một vài người biết nói tiếng Anh và tiếng Pháp. Họ vặn hỏi lý lịch của chúng tôi. Họ còn hỏi xem chúng tôi có thân nhân ở nước ngoài không. May cho tôi là xấp giấy tờ tùy thân còn nguyên vì bọn cướp đường không thèm lấy. Họ lục coi từng chữ một, xong họ cho chúng tôi ra ngồi phía trước văn phòng. May là tôi có thân nhân ruột thịt ở Mỹ quốc nên họ cũng không đối xử tử tế hơn với chúng tôi.
Sau đó, họ cho chúng tôi ra ngoài bụi tre. Tại đây tôi gặp gia đình ông Mỹ là bốn nguời, gia đình ông Nê là bốn người, anh em anh Hoà, anh Trung, vợ chồng anh Cho, vợ chồng anh Vĩnh (gia đình Kim Hà). Còn cô Oanh đến trước và bị nhốt ở trại bên kia. Cô ta tới trại lúc 12:00 giờ khuya.
Tại đây, nhóm lính Para phát gạo cho dân tị nạn ăn và cho muối để làm thức ăn. Sau đó, khoảng ba, bốn giờ chiều, cả đoàn tị nạn gồm ba mươi tư người được đưa qua nhà thương Non Chan.
Hồi Ký Của Ông Lê Tấn Lý - Trại Tị Nạn Nw 9
FRIDAY, OCTOBER 3, 2008
Hồi Ký Của Ông Lê Tấn Lý - Trại Tị Nạn Nw 9
Trại Tị Nạn Nw 9
Đoàn sáu trăm người này do anh Vinh làm đại diện gọi là trại B. Khi đến trại NW 9 thì ở nơi đó chỉ là một rừng cây, có rải rác vài tấm lều ni lông xanh của lính Thái canh gác. Tại đó có ba trăm người tị nạn vừa ở Non Samet đến vào ba ngày trước. Đoàn ba trăm người này gọi là trại A, do anh PNB làm trưởng trại. Anh B. là cựu trung úy, rất giỏi Anh văn.
Khi chúng tôi đến nơi thì được anh B. và ba trăm người tị nạn đến trước ra chào đón. Họ cũng đã cất một số lều, nấu cơm nóng và cá hộp để đón chúng tôi. Sau đó, cứ mỗi ba người lại được phát một tấm vải ni lông màu xanh để trải ra ngủ tạm trên đất đầy cỏ và cây cối. Cũng đêm ấy, một con rắn bò qua tay cô Oanh. Cô này hốt hoảng la hét lên, thế là cả trại cũng hốt hoảng hét to theo.
Lúc đầu, ông George Verheil, nhân viên hội HTTQT đã chuyển lời của viên đại úy TháiLan có tên là Viroj để dằn mặt chúng tôi:
“Các bạn được ở tạm đây và được coi như là những người nhập cư bất hợp pháp. Cuộc sống của các bạn sẽ không có ai bảo đảm. Các bạn không được đi ra khỏi giao thông hào chống chiến xa ở trước trại, cũng không được đi ra khỏi vòng dây giới hạn làm vòng rào. Nếu ai cãi lệnh sẽ bị xử bắn ngay.”
Các binh lính Thái Lan thì đóng rải rác ngay chung quanh trại này. Từ tháng 4 năm 1980 đến tháng 6, năm 1980, không có phái đoàn nào tiếp đón chúng tôi. Đến tháng 6 năm 1980, viên đại úy Thái là Viroj cho biết là nếu đến ngày 31 tháng 7, năm 1980 mà không có phái đoàn nước nào nhận chúng tôi thì tất cả mọi người sẽ bị đuổi về lại biên giới Thái và Cambodia, chứ không được ở nơi đây nữa.
Ban đại diện và các thân hào, nhân sĩ bèn họp nhau quy tụ những người giỏi sinh ngữ để viết thư cho ba mươi bốn nơi trên thế giới để xin cầu cứu. Chúng tôi viết thư đến các chính quyền Thái Lan, Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp và Anh, kể cả việc việt thư cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II ở La Mã, Ý và Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Tây Tạng.
Sau đó, chúng tôi họp tất cả khoảng ba ngàn người tị nạn trong trại NW 9, đọc cho họ nghe và xin thêm ý kiến. Rồi chúng tôi nhờ nhân viên hội HTTQT là ông Leon de Riedmatten chuyển thư đi.
Vì tuyệt vọng và lo sợ bị trả về biên giới rồi sẽ bị nhóm lính Para, Pol Pot hay Việt cộng bắn giết, hãm hiếp và bỏ tù, nên một số chúng tôi trong ban đại diện đã bàn với nhau để thống nhất một kế hoạch chung, chuẩn bị nếu người tị nạn bị trả về vùng biên giới sôi động.
(Lúc ấy, các người đàn ông và thanh niên chúng tôi sẽ trở về đầu quân cho cho quân Kháng Chiến chống Cộng Sản của người Cambodia. Sau khi được phát súng để chiến đấu, chúng tôi sẽ tìm đường vượt biên giới Thái, đi về hướng đông nam của đất Thái, lấy tàu bè của của dân Thái để vượt biển lần nữa đi đến Mã Lai hay Singapore. Lý do là vì lúc ấy đâu còn tiền để mua thuyền được. Có thể vào giờ cuối, chính quyền Thái vì lý do nhân đạo sẽ chỉ cứu vớt những gia đình có con nhỏ. Còn đám đàn ông, thanh niên như chúng tôi thì luôn chịu sự thiệt thòi.)
Sau đó một tháng thì có một phái đoàn của vị thứ trưởng bộ Ngoại Giao Mỹ đến thăm trại chúng tôi. Tất cả dân tị nạn trại NW 9 mừng rỡ vô cùng vì nghĩ rằng trại sắp được giải quyết. Khoảng hai tuần lễ sau thì có một danh sách gồm một trăm bốn mươi mốt người được phái đoàn Mỹ chấp nhận cho rời NW 9 để đến trại Panatnikhom ở sâu trong nội địa Thái, gần Bangkok.
Vào giờ chót, chính quyền Thái Lan gạt ra một số người để buộc họ ở lại, chỉ còn hơn một trăm người được tiếp tục đi. Trong số người bị gạt lại đó có tên ba cha con tôi vì chúng tôi không có trẻ con và phụ nữ.
Khi chúng tôi đến trại NW 9 thì nhân số vào khoảng chín trăm người. Nhưng khi chúng tôi rời trại thì nhân số lên đến ba ngàn người. Dân tị nạn đến rải rác hàng ngày và đều do xe của hội HTTQT chở đến từ các trại thuộc quyền kiểm soát của Para và Pol Pot. Mỗi ngày người tị nạn đến chừng vài ba chục người. Lúc ấy có tôi, ông C. và anh H. làm giấy tờ lý lịch (Tracing cards) cho những người mới đến.
Sau khi bị gạt tên trong danh sách, mãi đến hai tháng sau, gia đình tôi mới được đi tới trại Panatnikhom. Chúng tôi còn phải qua trại Galang ở Indonesia cho đến ngày 10 tháng 7, năm 1981 mới được đặt chân lên Oakland, San Francisco thuộc tiểu bang California.”
Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan 7
TUESDAY, JUNE 23, 2009
Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan - 7
Trần Chí Thành
Sáng hôm sau, khoảng sáu giờ sáng ngày 29 tháng 4, năm 1980, chúng tôi bắt đầu lên đường qua biên giới. Trời mờ sáng nên ít người qua lại. Vì sơ ý đi quá sớm nên chúng tôi đã bị một người bộ đội Miên chận bắt. Thế là bốn chúng tôi và người dẫn đường mạnh ai nấy chạy trốn. Tôi cũng cắm đầu chạy thục mạng vào một ngã tư gần đấy, lòng bâng khuâng không biết số phận bạn mình ra sao.
Chờ đến sáng tỏ rồi tôi mới lò mò đi thì chỉ gặp người dẫn đường và một bạn trong nhóm. Anh dẫn đường giao cho tôi một chiếc xe đạp và bạn tôi một chiếc nữa. Tâm hồn chúng tôi bối rối và căng thẳng. Tình thế thật là nguy hiểm: Đi sáu người rồi còn bốn, đang bốn người nay lại còn có hai. Chúng tôi đi xe đạp về phía đường mòn để hướng về biên giới.
Khoảng 11:00 giờ trưa, chúng tôi bị toán lính Bộ đội Việt Nam chận bắt. Cả ba người: hai chúng tôi và người dẫn đường đều bị hành hạ và đe dọa đủ điều nhưng chúng tôi không chịu khai điều gì khác những gì mà họ thấy. Họ lục xét và cướp hết số vàng bạc và tiền trong người chúng tôi.
Thấy số vàng khá nhiều nên họ thả cho chúng tôi đi tiếp. Lại có một phép lạ xảy ra vì tại đây, chính mắt tôi thấy bọn ho đã bắt những người vượt biên người Việt Nam, rồi trói ké lại thật chặt như những con heo để giải họ về giam giữ ở Việt Nam. Nhìn thấy các nạn nhân trông thương tâm và đáng tội nghiệp. Thế mà bọn họ lại thả chúng tôi đi. Đúng là một phép lạ của Thượng Đế!
Sau đó, người dẫn đường vội vàng dắt hai chúng tôi vào một trạm nhà sàn ở bìa rừng gần đó. Ông ta cho tôi và Phước ăn cơm và nghỉ trưa tại nhà này. Còn ông ta đi ngược về Sway-Sisophon để kiếm hai người bạn tôi đã thất lạc trong lúc chạy tán loạn, không biết bây giờ họ ở nơi đâu.
Mãi đến ba giờ chiều hôm ấy, ông ta tới và đem theo hai người bạn đã bị thất lạc. Chúng tôi bồi hồi và sung sướng gặp lại nhau. Thật không còn nỗi mừng nào to lớn hơn. Tinh thần chúng tôi cũng lên cao hơn vì nghĩ mình có một người dẫn đường đáng tin cậy và vì tái ngộ với hai bạn tưởng đã mất đi.
Kể từ đây, theo lời ông đưa đuờng thì con đường dẫn tới Thái Lan không còn bao xa. Nếu tính theo đường chim bay thì còn cỡ hai mươi lăm hay ba mươi cây số nữa. Nhưng có hai phương cách để đi đến đích. Cách thứ nhất là đi theo đường đi buôn của dân Miên. Họ đi từng tốp xe đạp để chở hàng hoá về. Họ đi con đường thẳng, đến ngã ba thì quẹo trái để ra đường qua biên giới Thái Lan.
Nếy muốn đi lối này thì gặp rất nhiều trạm kiểm soát của Bộ đội Việt Nam cũng như Bộ đội Cộng sản Miên. Những người lính canh gác ở đây rất dữ dằn và canh gác nghiêm nhặt vì đây là những trạm gác cuối cùng để đi đến biên giới và cũng là những trạm gác địa đầu nếu từ biên giới Thái trở về Cambodia. Nếu đi vượt biên lối này thì rất khó thoát vì chính mắt tôi đã thấy rất nhiều người Việt Nam bị bắt hôm nay.
Cách thứ hai là đi tắt vào đường rừng để đến biên giới. Nhưng đi trong đường rừng rất khó mà định phương hướng. Ngoài ra ta sẽ gặp mìn, hay không thể kiếm mua lương thực và nước uống, như vậy có thể đói và chết bỏ xác dọc đường.
Sau khi bàn tính để so sánh lợi hại giữa hai cách đi, chúng tôi liền nhớ lại cảnh hai người bạn bị bắt hôm trước vì đi qua các trạm kiểm soát. Với phương cách giả dạng dân Miên đi buôn, chúng tôi không tin rằng mình có thể đi trót lọt qua nhiều trạm kiểm soát gắt gao của vùng địa đầu biên giới này.
Tính tới hôm nay, chúng tôi đã trải qua mười ngày đường đầy gian khổ và hiểm nguy. Chúng tôi đã qúa mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác: ăn uống thất thường, nằm bờ ngủ bụi. Thần kinh của chúng tôi đã căng thẳng đến mức tột cùng. Không một giây phút nào mà không phải lo âu và suy nghĩ. Sự đau khổ và nỗi hãi hùng cứ chồng chất thêm vào bước chân đi tới.
Lính Cộng Sản Việt Nam giăng lưới bủa vây khắp nơi. Chúng tôi khiếp hãi đến tột độ. Thôi! thà ráng chọn lối đi vào rừng, dù cho nó có dài hơn và khổ hơn nhưng vẫn tốt hơn là cứ phải đối diện với kẻ thù và không biết họ sẽ bắt mình lúc nào nữa. Do đó chúng tôi đều chọn lối đi vào rừng, dù có thể đạp mìn, có thể đói khát vì thiếu luơng thực và nước uống.
Sau khi nghỉ trưa ở trạm bên bìa rừng, vào khoảng 4:00 giờ chiều ngày 29 tháng 4, năm 1980, chúng tôi bắt đầu đi bộ tắt vào đường rừng, băng qua núi theo sự hướng dẫn của một thổ dân ở đó để tránh khỏi đạp những ổ mìn của tất cả các phe phái chính trị.
Đêm hôm ấy, chúng tôi ngủ tạm ở trong rừng biên giới. Ánh trăng sáng vằng vặc làm không khí khu rừng đỡ buồn tẻ. Chúng tôi vẫn lo sợ và cảnh giác tối đa.
Sáng hôm sau, vào đúng ngày 30 tháng 4 năm 1980, đúng 5 năm,sau khi Cộng Sản Việt Nam chiếm miền Nam Việt Nam, và cũng là ngày Quốc Hận, chúng tôi đã dậy thật sớm và bắt đầu đi băng qua đường rừng. Suốt ngày hôm ấy, chúng tôi chịu cảnh đói khát. Tay chân mỏi rã rời. Nắng cứ quái ác rót đổ trên đầu làm mồ hôi chúng tôi toát ra như tắm.
Nhưng nhất định phải cố mà đi, nếu sơ hở một chút thì chúng tôi lại có thể bị bắt ngay hay bị đạp mìn mà chết banh xác trong rừng biên giới. Sự nguy hiểm đã và đang rình rập chúng tôi trên từng bước. Con đường rừng trải dài trước mắt và chúng tôi cứ lầm lũi quyết chí tiến lên.
Sau cùng, chúng tôi cũng đã lần mò đến được con đường mòn của dân đi buôn lậu. Tới đây, người dẫn đường cười hớn hở và quay lại nói với chúng tôi rằng:
-Tới đây, các anh đã thoát khỏi tầm hoạt động của Cộng Sản Việt Nam rồi. Bắt đầu từ đây, các anh có thể gặp lính Miên của Lon Nol, Sihanouk, Son Sann hay lính Khmer Đỏ của Pol Pot. Họ có thể bắt các anh để tra hỏi và cướp của. Các anh đừng trốn tránh và cứ để cho họ bắt. Cuối cùng, họ cũng giao các anh cho người Mỹ!
Chúng tôi mừng rỡ vì đã thoát khỏi vùng kiểm soát của Bộ đội Việt nam. Thế là chúng tôi lại tiếp tục đi mãi trên con đường mòn biên giới. Người dẫn đường dặn dò chúng tôi:
-Các anh cứ đi thẳng theo đường xe bò này là tới trại tị nạn!
Rồi sau đó, anh ta bỏ rơi chúng tôi ở dọc đường. Kể từ 5:00 giờ sáng khởi sự đi trên đường mòn, chúng tôi gặp rất nhiều dân Miên đi buôn bằng xe đạp. Họ nói cười và đùa giỡn rất vui vẻ. Còn chúng tôi thì đã qúa mỏi chân và mệt nhoài. Thử đánh bạo, chúng tôi ngoắc họ lại để xin đi qúa giang nhưng tất cả đều lắc đầu từ chối. Chán nản cùng cực, chúng tôi lại tiếp tục đi bộ tiếp.
Bất ngờ, chúng tôi bị ba người lính Miên chặn lại. Những nhóm lính này không mặc quân phục giống Bộ đội Cộng sản Miên hay Bộ đội Cộng Sản Việt Nam, mà họ lại mặc quân phục rằn ri như lính nhảy dù của VNCH ngày xưa. Chúng tôi đoán đây là lực lượng kháng chiến của Lon Nol hay Sihanouk.
Đám lính này tra xét và khi biết chúng tôi là người Việt Nam thì họ cười đùa thích thú, rồi họ ra lệnh cho chúng tôi đi theo họ vào sâu trong rừng, xa khỏi đường mòn. Tại đây, họ chỉa súng vào người chúng tôi và nhanh như chớp, họ bắt chúng tôi lột trần như nhộng để họ khám xét mọi chỗ trong cơ thể và hành lý để cướp của. Sau đó, họ lại cho chúng tôi đi tiếp.
Trên suốt con đường mòn trong rừng biên giới, chúng tôi đã bị chận xét và lục soát để lấy của đến mấy chục lần, bởi hết toán lính này đến toán lính khác. Cuối cùng, chúng tôi chẳng còn một thứ hành trang nào khác, ngoài bộ quần áo đen mặc trên người.
Tiền hết, cơn đói rã rời, cơn khát cháy cổ, tất cả những lo âu và bận tâm ấy làm chúng tôi mệt đến muốn ngất xỉu. Chúng tôi bèn hỏi những người dân Miên đi buôn rằng bao giờ tới Thái Lan. Ai cũng trả lời còn năm hay mười cây số nữa thôi. Tuy nhiên, lần nào hỏi cũng chỉ nghe năm hay mười cây số. Chúng tôi tưởng chừng muốn điên lên vì qúa sức khổ và đói khát.
Trời cực nóng, nắng sôi đổ lửa trên đầu, con đường mòn như cứ kéo dài ra. Rồi cuối cùng, chúng tôi cũng đã lần mò và tìm đến gặp một đồn lính của lực lượng Para vào khoảng lúc trời nhá nhem tối, độ 6:30 giờ chiều.
Tôi tưởng rằng mình sắp đến trại tị nạn rồi nên mừng rỡ. Thế là từ đây sẽ không còn ai dám làm gì hại được chúng tôi nữa rồi. Một ngày qua đi với hơn năm mươi cây số lội bộ đường rừng, với cơn đói và khát khô cổ.
Chúng tôi đã băng qua một khu rừng đầy những quân lính của bao nhiêu phe phái, nghe nhiều tiếng súng nổ, vượt khỏi những bãi mìn giăng đầy. May là chúng tôi có người dẫn đường chỉ dẫn cho đi vào con đường mòn. Chứ nếu không, có thể chúng tôi đã chết banh xác vì đạp nhằm mìn từ lúc đi băng rừng rồi.
Thoạt đầu, chúng tôi tưởng mình sẽ được thoải mái khi được ở đồn Para vì chúng tôi đã thoát khỏi tay lính Việt Cộng. Nhưng rồi, qua kinh nghiệm, chúng tôi thấy bọn Para cũng độc ác và nguy hiểm không kém.
Bọn này không để cho chúng tôi yên, chúng cứ thay phiên nhau lục xét để cướp của. Thậm chí vào ban đêm, chúng cũng rọi đèn pin vào mặt rồi dựng đầu chúng tôi dậy đi, bất chấp cả khi chúng tôi đang ngủ ngon lành.
Chúng tôi ở tại đồn Para trong hai đêm. Đến ngày 2 tháng 5, năm 1980, lúc 9:00 giờ sáng, thình lình hai phe Para và Pol Pot đụng độ nên bắn nhau đữ đội, đạn bay vù vù trên đầu. Chúng tôi qúa sức hoảng sợ nên nhất loạt nằm cúi rạp xuống đất để tránh tầm đạn.
Lúc này, bọn Para đã hoàn toàn ở vào tư thế ứng chiến. Chúng vội vàng đeo bùa vào cổ, vào tai và tay. Bùa màu đỏ, đeo tòn ten trên người nên trông chúng còn dữ dằn hơn lúc bình thường. Nhóm Para này núp vào các bụi cây để bắn trả nhóm lính Pol Pot một cách quyết liệt. Bọn họ nằm cách chúng tôi chỉ có vài chục thước. Còn chúng tôi thì không có một tấc sắt trên tay, chỉ biết nằm úp mặt xuống đất, mặc cho định mệnh an bài.
Sau khoảng nửa giờ giao tranh, hai phe im tiếng súng. Trưa hôm đó, nhóm Para đưa bốn chúng tôi đến trại Non Samet, tức là trại 007.
Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan - 8
TUESDAY, JUNE 30, 2009
Cuộc Hành Trình Vượt Biên Từ Sàigòn Đến Thái Lan - 8 (Kết cuộc)
Trần Chí Thành
Chúng tôi ở trại này trong sự băn khoăn chờ đợi vì không biết số phận mình sẽ được định đoạt như thế nào. Trong lúc ấy, nhóm lính Para ở trại này vẫn lại tiếp tục lục xét. Cái trò lục xét và bắt nạn nhân cởi quần áo và chổng mông cho họ móc trong hậu môn đã làm cho chúng tôi chán ghét và cảm thấy tủi nhục thêm vì thấy thân phận mình còn thua một con chó. Họ muốn hành hung và hạ nhục mình lúc nào cũng được.
Trong thời gian này, tôi lân la bắt chuyện với một người lính Para và được biết trại này chỉ cách ranh giới Thái Lan có mười cây số. Tôi nghĩ thầm:
-Nếu đi mười cây số thì chỉ mất có hai tiếng đồng hồ là cùng. Mình phải đi thôi, nếu không thì cứ phải chịu đựng cái cảnh chờ đợi mỏi mòn và chịu nhục vì bị họ lục soát mãi.
Tôi bèn bàn luận với ba người bạn và rủ họ cùng trốn qua đất Thái Lan. Nhưng ba người bạn tôi lắc đầu từ chối nên tôi phải trốn đi một mình với hai bàn tay trắng. Tôi nhắm hướng theo lời chỉ dẫn của tên lính Miên để đến Thái Lan.
Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, khi đã vào trong một cánh rừng nọ, thình lình tôi gặp một nhóm lính khác, mặc sắc phục khác hẳn nhóm lính Miên ở đây. Có lẽ họ là lính Thủy Quân Lục Chiến của Thái Lan vì họ mặc quần áo rằn ri, có nón sắt và đi xe thiết giáp.
Tôi sung sướng qúa vì giây phút chờ đợi từ lâu nay đã đến. Tôi mừng rỡ chạy lại phía họ vì nghĩ rằng họ sẽ đón tiếp tôi vì tôi là người tị nạn Cộng Sản để tìm tự do. Nhưng hỡi ơi! Năm người lính Thái, với vẻ mặt hung dữ đã chiả súng vào tôi và ra lệnh cho tôi đứng yên để họ lục xét.
Có lẽ họ ngỡ tôi là dân Miên, muốn vượt biên giới để trốn qua Thái, nên họ ra lệnh cho tôi hãy trở về phiá biên giới Cambodia. Thất vọng qúa nên tôi rút giấy tờ tùy thân mà tôi vẫn giữ ở trong bóp ra để chứng minh thân thế của tôi là người Việt nam đi tị nạn Cộng Sản.
Cuối cùng, viên xếp của lính Thái lắc đầu và tiếp tục đuổi tôi về lại biên giới. Tôi đau đớn và bàng hoàng vì đã phải trải qua mười lăm ngày đường vất vả hiểm nguy, đã bỏ tất cả sự nghiệp, xa lìa cha mẹ anh em, hy sinh chính mạng sống mình để đi tìm tự do. Không ngờ khi đã đến bến bờ tự do, tôi lại bị bạc đãi và bị đuổi một cách nhục nhã. Nhưng nếu không trở về thì làm sao đây? Mà nếu liều vượt biên giới thì lính cũng sẽ bắn chết.
Thành ra, tôi buồn tủi, đau đớn, chua xót và ngậm ngùi mà phải trở lui, đi ngược về phía làng Para. Về lại chốn cũ trong mệt mỏi rã rời, tôi gặp lại ba người bạn đồng hành. May mắn là bọn lính Para không hề hay biết gì về cuộc đào thoát tới Thái của tôi. Nếu họ biết thì chết. Họ có thể hành quyết tôi ngay mà không suy nghĩ.
Thế rồi chúng tôi đành sống tiếp tục ở trại Non Samet cho đến hôm sau, vào ngày 4 tháng 5, 1980, thì một chiếc xe của hội HTTQT đến trại. Có một người Âu Châu đứng tuổi đến để lãnh dân tị nạn đến trại tị nạn.
Sau đó, chúng tôi được kêu lên phòng làm việc của viên Para chỉ huy để làm thủ tục giấy tờ, rời nơi đó mà đến trại tị nạn. Tại văn phòng của viên chỉ huy Para, tôi gặp một tốp người Việt Nam ở đó. Nhóm này gần mười người, gồm các gia đình khác nhau. Họ dường như vất vả và cực khổ hơn chúng tôi nhiều.
Chúng tôi là bốn thanh niên nên chỉ bị khám xét, lột lấy vàng bạc. Tuy tinh thần chúng tôi mệt mỏi, nhưng chúng tôi vẫn còn lành lặn. Nhóm người tị nạn Việt kia thì tội nghiệp hơn. Có ba người đàn ông trong nhóm thì một người da bị cháy nám, một ông già hơn thì không còn đi được nhưng chỉ lết mà thôi. Ba người phụ nữ trong nhóm thì da mặt đều cháy nám đen, vẻ mặt mệt mỏi và hằn đầy nét tủi nhục.
Theo lời những người đàn ông kể lại thì ba người phụ nữ này khi ở tiền đồn Para đã bị bọn lính Para làm nhục rất nhiều lần. Họ bị hãm hiếp tập thể và còn bị chúng hành hạ đớn đau. Tôi nghe mà chỉ biết đau đớn, ngậm ngùi và thương xót cho họ chứ còn biết làm gì hơn?
Trong đám người đến sau này, tôi thấy ông già bị liệt chân vì cuộc đi bộ triền miên, cứ ngồi tỉ tê khóc mãi. Tiếng khóc thổn thức làm cho người nghe phải cảm thương và xót xa cho thân phận ông. Khi hỏi ra thì mới rõ rằng ông ta đi với một con trai nhỏ và một con gái. Nhưng khi ông ta đến nơi thì chỉ còn hai cha con, còn con trai nhỏ của ông đã bị thất lạc, có thể đã bỏ xác trong rừng rồi.
Cạnh đó là một gia đình khác gồm người mẹ trên bốn mươi tuổi đi cùng ba con nhỏ. Bà L. này đến nơi thì gửi thư về Việt Nam cho chồng và hai con còn lại để họ đi sau. Vài tuần lễ sau, chỉ có hai con của bà được hội HTTQT đem vào trại ti nạn. Còn chồng bà L. thì biệt tin tức, chắc chắn ông ta đã bị giết chết hay bỏ xác trong rừng biên giới rồi. Thật đau khổ khi người cha thì mất tích, còn hai người con bơ vơ đến được trại tị nạn gặp lại mẹ.
Còn nhiều trường hợp như hoàn cảnh của anh L., anh đến bến bờ tự do cùng với đứa con ba tuổi. Còn vợ và đứa con một tuổi của anh đã bị lính Cộng Sản bắn chết ở Battambang, trên con đường vượt thoát.
Kết cuộc
Ngày 4 tháng 5, năm 1980, lúc 4:15 giờ chiều, sau mười lăm ngày dài cực khổ và hiểm nguy, chúng tôi đã được hội HTTQT đón và đưa về trại tị nạn NW 9. thoát nạn khỏi bàn tay của lính Para, một nhóm người chuyên sống bằng luật rừng xanh.
Sau khi ở trại NW 9, tôi được tới trại Pananikhom, rồi qua trại Bataan trước khi định cư ở Mỹ quốc.
Trần Chí Thành
Cuộc Hành Trình Gian Khổ - Lê Văn Hưng
SATURDAY, NOVEMBER 24, 2007
Cuộc Hành Trình Gian Khổ - Lê Văn Hưng
Bài viết của anh Lê Văn Hưng (Làm ở OPD tại trại Dangrek). Bài viết đả được đăng trên báo TinViệt tại California vào những năm 1984-1985.
Non Samet ngày 28, tháng 7, 1983.
Khởi hành từ Sàigòn vào sáng sớm, Lê đáp xe đò tại xa cảng miền Tây để đi Châu Đốc. Xế chiều thì đến nơi. Đoạn đường đi cũng khá vất vả: nhiều ổ gà và nắng nôi... Trọ một đêm tại nhà một người quen của người dẫn đường. Chiều hôm sau đi đò ngang qua Tân Châu rồi đi xe lôi đến bến đò Tân Châu.
Từ đây, đò nhỏ sẽ đưa khách ra đò máy neo giữa sông. Đến gần đêm đò mở máy đi về hướng Nam Vang sau khi chất đầy hàng hóa. Đò đã vượt nhiều trạm xét để tránh né sự kiểm soát nguy hiểm. Lê chỉ biết là mình đã vào lãnh thổ Miên khi nghe người lính xuống xét đò nói bằng tiếng Miên trong đêm tối.
Khoảng 10:00 giờ sáng hôm sau thì đò tiến vào địa phận Nam Vang. Từ xa đã thấy mái ngói đỏ của Thành ông vua, tức là dinh của Hoàng tử Sihanouk xưa kia. Trong suốt cuộc hành trình trên sông, Lê phải vấn khăn mà người Miên gọi là Kroma hay kàma để che mặt và nằm co quắp lại cho giống một đứa trẻ hầu cho công an chìm không nhận diện được.
Bốn người dẫn đường và Lê đi xe lôi qua cầu Sàigòn, tên một cầu lớn ở Nam Vang, về ở nhà một người quen của các người dẫn đường khoảng năm ngày để chờ đường xá êm và chờ có xe để đi Battambang. Đường đi Battambang cũng hư nát nhiều chỗ, nên xe chạy bị xóc, đi hết một ngày tròn mới đến nơi.
Tại bến xe, bọn Công an chìm của Miên đầy rẫy nên rất dễ bị bắt. Phải lên xe, xuống xe, nói chung là phải hành động thật ăn khớp với dấu hiệu của người dẫn đường. Tiếng Việt trong lúc ấy thật nguy hiểm, khi tối cần thiết mới dùng đến mà phải nói thật nhỏ, thật kín đáo. Còn tất cả phương tiện thông tin là ánh mắt và dấu hiệu bằng tay. Cứ như là một phim trinh thám.
Xuống khỏi xe đò, len lỏi trong đám đông rồi phóng lên một xe lôi thật nhanh, đi về nhà một người quen của các người dẫn đường. Chờ đến tối mới về nhà của họ ở sâu trong rẫy.
Trong khi chờ đợi, Lê xin chủ nhà đi tắm cấp tốc để tẩy đi cả kí lô đất bụi và mồ hôi bám trên người. Tối đến, mẹ của người dẫn đường, độ 70 tuổi, ra dẫn Lê về nhà họ. Vì đường đi mất an ninh, Lê phải ở đó cả nửa tháng. Thật bực bội! Ăn rồi phải bó chân trong một căn buồng cỡ ba thước vuông trên nhà sàn cất theo lối người Miên. Khi muốn tắm và đại tiện thì phải chờ đến tối mới được xuống nhà sàn và ra ngoài, nhưng phải thật lẹ!
Đến ngày đi, cả nhà thức dậy sớm, lo hóa trang cho Lê bằng cách bôi lọ nồi lên mặt cho đen bớt, rồi họ chỉ cho Lê cách vấn khăn cho đúng và cách xức bùa. Xong Lê lội ruộng ra bến xe Battambang cùng với bà cụ 70 tuổi và hai người cháu của bà.
Cuộc mạo hiểm đến giai đoạn này gay go hơn trước. Thường thì người tị nạn bị bắt ở đây. Đi xe đò từ Battambang đến Swai, Sisophon. Tới bến xe Swai, đi xe ngựa, vào một con đường núi, có nhà dân rải rác hai bên đường.
Theo chương trình, bọn người dẫn Lê có hẹn với một người đánh xe bò khác tại khúc đường rầy, nên cả bọn vào một quán nước nhỏ bên lề đường để chơ đợi. Người dân chung quanh nhìn Lê một cách tò mò, soi mói đến rợn tóc gáy! Thật không ổn, người cháu trai bèn dẫn Lê vào một bụi rậm trong ruộng, bảo ngồi nấp ở đó, chờ y trở lại. Nếu y muốn bỏ rơi Lê lúc đó thì thật dễ như trở bàn tay!
Ngồi đó khá lâu mà không thấy y trở lại, Lê bắt đầu lo. Bất chợt một người đàn ông từ xa rẽ bụi rậm tiến ngay lại nơi Lê nấp. Y bảo Lê đứng dậy và theo y. Thế là xong! chắc về Chí Hòa quá(Chí Hòa là nhà tù ở Sàigòn, Việt Nam). Nhưng về đến nhà, y bảo Lê nằm trên bộ ván ngựa và ngủ đi. Còn y sẽ đi canh bắt người dẫn đường và giao họ cho công an vì những người này, theo y, đã bỏ rơi Lê. Đứa con gái của y, trông cũng dễ thương và nhí nhảnh, nhưng khá lễ phép, cười trấn an Lê và ra dấu bảo không sao đâu.
Khoảng một tiếng sau, người đàn ông ấy dẫn các người dẫn đường về. Hai bên bàn bạc với nhau bằng tiếng Miên. Người đàn ông ấy là người Chàm, ông ta bằng lòng che dấu Lê, chờ đến tối Lê sẽ lên đường.
Theo sự thỏa thuận từ trước, Lê chỉ đưa tín hiệu về khi nào tới trại và chụp hình gửi về kèm với tín hiệu để gia đình Lê đưa tiền. Nhưng tới đây, người cháu trai của bà cụ 70 tuổi phân trần, nài nỉ Lê viết tín hiệu, và nói lần trước gia đình người anh của Lê cũng đưa tín hiệu tại một làng Miên chứ chưa tới trại tị nạn. Quan trọng là tin tưởng nhau và uy tín của lần trước đủ để bảo đảm cho lần này. Sau khi cân nhắc lợi hại và kèm theo một chút liều, Lê đành viết tín hiệu.
Người cháu trai ấy bảo Lê sẽ đi theo hai người Khmer khác, còn y sẽ đạp xe đạp theo một đường khác công khai, vì y biết tiếng Miên. Y nói là vào sáng hôm sau, Lê sẽ vào trại người Miên ở một ngày, hôm sau y sẽ thuê người dẫn Lê đến trại người Việt. Tại đó, Lê sẽ được phát quần áo, bàn chải đánh răng và khăn.
Đến tối, trời mưa lất phất, Lê theo hai người thanh niên Khmer khác lần mò xuống ruộng nước. Khi thì Lê phải bương theo đám cỏ gai và cây mắc cở. Chân tay bị đâm nát bấy, có lúc phải bị dính lùng bùng trong ấy rất lâu mới gỡ ra được. Khi thì Lê phải lội qua nơi nước sâu qúa đầu, Lê lại không biết bơi, phải bám vào một cái thùng bằng nhựa để cố gắng bám theo hai người Khmer ấy.
Trong đoạn đường lội nước đó, Lê uống nước sình khá nhiều và bị đỉa đeo cũng dữ. Lê không quen đi trên bờ ruộng trơn trợt. Hơn nữa, đêm tối đen như mực, tay giơ lên không thấy, nên Lê té lên té xuống nơi ruộng sình lầy hàng trăm lần. Hai ống quyển bị va vào các ụ mối nhỏ trên bờ ruộng đau đến tê tái.
Có lúc Lê phải lội qua những cánh đồng cỏ ngập nước, cỏ ba khía bén như dao cạo đã cứa nát các kẽ ngón chân. Các bắp thịt ở háng và hông đã rã rời, không còn tính dẻo dai nữa, cho nên cử động rất khó khăn. Có lúc Lê phải đi ngang như cua, có lúc đi giống một người què, có lúc không cất nổi chân lên một độ cao chỉ mười phân. Lê bị vướng vào cỏ, té nhào xuống, không muốn ngồi dậy nữa.
Chàng cứ thế mà nằm dụi xuống dưới lớp bùn, nếu không có sự thúc hối của hai tên dẫn đường. Bộ não không còn làm việc, chỉ còn một ý tưởng duy nhất trong đầu là: ”Gắng đi tới!”
Đêm thì mù mịt, không biết bao giờ mới sáng. Nhưng không hiểu lúc ấy Lê mong sáng để làm gì? Vấn đề không phải là sáng hay tối, mà là chấm hết con đường. Trong khi ruộng nước bao la, đi hoài không thấy hết. Xỉu lên xỉu xuống cả trăm lần, hai tên dẫn đường có khi phải xốc nách Lê mà lôi đi.
Sức đã kiệt! Nhiều lúc trên đường đi, Lê không dám nghĩ rằng mình có thể vượt qua sự thử thách kinh khủng này, rằng mình có thể đi hết con đường tị nạn. Hai tên dẫn đường đi rất nhanh, cứ bỏ xa Lê hàng chục thước trong đêm tối. Lâu lâu, Lê phải ngồi thụp xuống, căng mắt ra để cố phân biệt hai bóng đen mờ, nhấp nhô của hai tên dẫn đường với các bóng cây in trên nền trời mờ mờ xám.
Quan sát thái độ ấy của hai tên Khmer, một ý nghĩ đến với Lê lần thứ hai làm tim chàng co thắt lại:
”Cứ cái đà này thì chúng sẽ bỏ rơi mình!”
Khuya hôm ấy, tôi được dẫn vào một làng của người Khmer Đỏ. Trong làng tối đen như mực. Người ta di chuyển trong làng đều phải dùng đèn pin. Mỗi khi có ánh đèn pin lóe lên là tôi sợ điếng hồn vì ngỡ rằng công an hay bộ đội Miên bắt mình.
Cũng tại làng ấy, tôi gặp được chiếc xe bò đã chở gia đình tôi. Lòng mừng thầm vì tôi nghĩ rằng mình sẽ được leo lên xe bò đi tiếp thay vì phải đi bộ. Ai ngờ xe bò lại đi tiếp về phía trước, còn tôi phải lẽo đẽo theo sau và giữ khoảng cách độ mười thước.
Tới một trạm gác, có một tên lính Miên chận xe bò lại và nói một tràng tiếng Miên. Lập tức, chiếc xe bò phải ngừng lại. Nhanh như cắt, tên dẫn đường kéo tôi đi tách ngay qua đường khác liền. Tôi sợ run lên vì nghĩ rằng chị và cháu tôi có thể bị phát hiện và bị giam giữ tại đó rồi. Trời thương nên tôi không ngồi trên xe bò ấy.
Dù đi lối khác để tránh sự dòm ngó, nhưng tôi luôn phải chạy theo người dẫn đường. Chúng tôi đi lạc vào một bãi gò mồ ma. Nơi này có đầy phân và nước tiểu. Mỗi bước đi là đạp lên phân. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc làm tôi muốn ói. Tuy vậy chúng tôi không còn cách chọn lựa nào khác an toàn và tốt hơn cả.
Chúng tôi cứ lần mò mãi trong đêm đen như những người mù. Cuối cùng, tôi được dắt vào một nhà sàn có lầu cao. Hình như đó là nhà của một nhân viên cao cấp Khmer Đỏ, có liên hệ bà con với bọn dẫn đường. Sau đó, họ lấy mì sợi cho tôi ăn để lấy lại sức. Nhưng tôi vì mỏi mệt quá lại căng thẳng đầu óc nên ăn không nổi, mà chỉ xin uống thuốc thôi.
Cũng tại ngôi nhà này, tôi gặp lại chị và cháu tôi. Cả hai người đang nằm sẵn từ hồi nào rồi. Thì ra lúc xe bò chận lại thì bọn lính chỉ hỏi han qua loa rồi cho đi qua chứ không bắt lại. Cả ba chúng tôi mừng rỡ vì được đoàn tụ, còn sống sót mà nhìn thấy nhau là vui rồi.
Thế rồi, chị em tôi bảo nhau đi ngủ cho đủ sức mà đi tiếp nữa. Còn bọn người Miên trong nhà thì nói chuyện nho nhỏ vì nơi này nguy hiểm, đó thuộc vùng kiểm soát của Khmer Đỏ. Nếu bị lộ thì mất đầu như chơi.
Nơi đây, chúng tôi cũng gặp lại người đẫn đường đã đưa chúng tôi từ Sàigòn đến Nam Vang và Battambang. Anh ta nói tiếng Việt với chúng tôi rằng:
-Bây giờ đã đến nơi an toàn rồi. Coi như anh chị đã thành công rồi. Vậy xin anh chị hãy viết mật mã cho tôi về Sàigòn lãnh số vàng còn lại. Vì khi ở trại tị nạn, chúng tôi không dám đến đó để lãnh tiền. Ở đó có Hội Thiện Quốc Tế, ai mà dám đòi tiền nong và mật mã?
Chị em tôi bàn tính thiệt hơn. Đây đâu đã phải là trại tị nạn mà chỉ mới là vùng của Khmer Đỏ kiểm soát. Mình sống chết chưa biết lúc nào, làm sao mà dám viết thư về nhà để giao tiền hết cho họ?
Tuy nhiên, sau khi thảo luận, chị em tôi đều đồng ý viết đúng nội dung mật hiệu mà chúng tôi đã thỏa thuận với người nhà ở Việt nam để họ có thể về lấy tiền. Chúng tôi nghĩ:
”Mình cứ lấy lòng ngay thẳng mà đối với họ rồi Ơn Trên sẽ giúp đỡ và che chở cho mình.”
Vì thế, tôi liền viết mật hiệu vào tờ giấy như sau:
”Anh, B., Sơn đã khỏi bịnh.”
Anh là tên của chị tôi, B. là tên của tôi, còn Sơn là tên của cháu tôi. Nếu tôi viết mật hiệu có nội dung khác như:
”Ba chị em tôi đã đến Mỹ,”
Thì làm sao hắn biết được? Mà về đến Việt Nam thì người nhà tôi dứt khoát không bao giờ giao tiền cả vì hai mật hiệu hoàn toàn khác biệt.
Sau khi giao mật hiệu cho anh ta, gia đình tôi ngủ đỡ độ chừng một, hai tiếng đồng hồ cho đỡ mệt. Đến lờ mờ sáng thì bọn họ đánh thức chúng tôi dậy đi tiếp. Anh dẫn đường kia đã đi về hướng Việt Nam để lãnh tiền. Từ đó trở đi, chúng tôi chỉ đi với bọn dẫn đường khác mà thôi.
Lần này cả ba chúng tôi phải đi bộ băng qua các khu gò mồ mả. Đi một lúc lâu, cháu nhỏ của tôi mệt quá nên đi không nổi nữa. Người dẫn đuờng phải cõng nó mà đi tiếp. Chúng tôi băng đồi mà đi mãi. Khi đến một khu rừng âm u vắng vẻ, chúng tôi cùng người dẫn đuờng đứng tại đó để chờ xe bò.
Chờ thật lâu mà xe bò không thấy tới, chúng tôi bồn chồn nóng ruột vô cùng. Người dẫn đường cũng lo âu không kém. Hắn nhìn tới nhìn lui, chép miệng và nói một tràng tiếng Miên. Tôi đoán rằng anh ta bực mình nên phàn nàn về việc chiếc xe bò đã đi lạc hướng rồi. Những phút chờ đợi dài lê thê. Rốt cục, chúng tôi nghe tiếng xe bò lọc cọc đi tới.
Khi xe bò đến nơi, người đánh xe bò vẫn là người cũ, nhưng người ngồi trên xe bò phiá sau lại là người lạ. Người đánh xe bò dừng xe lại rồi trả tiền cho người lạ kia. Chúng tôi đoán chừng anh ta dẫn dường cho anh chủ xe bò đi lọt qua các trạm gác. Anh nọ nhận tiền là đi ngay, bóng anh mất hút về phía đường khác.
Đến bấy giờ, ba chúng tôi lại được ngồi trên xe bò cùng với chủ xe và anh dẫn đường để đi tiếp. Lần này xe bò đi vào rừng chứ không còn cảnh đồi hay ruộng nữa. Xe đi băng rừng mãi cho đến khoảng 9:00 giờ sáng. Tiếng chim hót thật hay lạ lùng và làm vui tai người nghe. Rừng thật yên tĩnh hoang vu, không một bóng người, không có cả tiếng động, ngoài tiếng xe bò đi lọc cọc và tiếng chim ríu rít hót líu lo.
Cảnh rừng thật đẹp và hùng vĩ nhưng tôi chẳng còn lòng dạ đâu mà thưởng thức cảnh đẹp nữa, chỉ toàn thấy hồi hộp và lo âu. Đi thật lâu trong khu rừng vắng mà không thấy động tĩnh gì, nên chúng tôi tạm yên tâm.Trong khi đó, anh dẫn đường chỉ tay về phía trước và nói:
”Thái Lan, Thái Lan!”
Chúng tôi mừng vì nghĩ là chắc sắp tới nơi an toàn rồi, có lẽ trại tị nạn chỉ còn vài bước nữa thôi. Thình lình, từ trong đám bụi cây, có ba người lính bộ đội Việt Nam, đầu đội ba chiếc nón cối nhảy xổ ra đột ngột làm cho chúng tôi giật nẩy mình.
“Ôi thôi, bộ đội Việt Nam rồi!”
Chúng tôi rụng rời tay chân, lòng thầm nghĩ:
”Thế là hết, đã đến nơi mà gặp bộ đội thì đời tàn rồi. Tiền đã hết, làm gì có mà hối lộ cho họ nữa chứ? Họ lại bắt mình về Việt Nam rồi. Ôi! Uổng cho công sức, uổng cho tiền bạc đã mất đi. Thế là mất tất cả rồi! Không còn gì nữa hết rồi!”
Chúng tôi tuyệt vọng và sợ hãi đến tột độ. Ba người bộ đội hỏi chúng tôi bằng giọng Bắc nặng và quê của những người Bắc vào miền Nam sau năm 1975, chứ không phải những giọng Bắc của những người Bắc di cư năm 1954:
-Mấy người đi đâu?
Bọn người Miên đứng im lặng không trả lời đã đành, còn chúng tôi cũng im lặng luôn, giả bộ là người Miên, không hiểu tiếng Việt. Lính bộ đội hỏi tiếp:
-Rõ ràng mấy người vượt biên mà. Người Việt Nam sao không trả lời?
Thôi, lộ tẩy rồi! còn gì nữa mà giả bộ không hiểu. Chúng tôi bắt buộc phải trả lời:
-Bọn tôi là người Việt Nam.
Họ hỏi tiếp:
- Mấy người đi đâu thế?
-Bọn tôi định đi Thái Lan thăm người bà con.
-Vượt biên chứ Thái Lan, Thái liếc gì! Xuống! Xuống xe hết!
Chúng tôi ngán ngẩm, vội bước xuống xe hết. Họ lại hỏi:
-Tại sao đi vượt biên?
Chị tôi khóc lóc thảm thiết và trả lời:
-Dạ tại khổ quá nên chúng tôi phải đi.
-Biết khổ sao còn đi? Bây giờ có tiền không? Không tiền là không đi đâu hết!
Thế là bọn họ tách chúng tôi ra hai nhóm để lục xét. Họ bắt chúng tôi cởi quần áo ra để họ lục soát kỹ xem có vàng bạc hay tiền nong gì không. Sau đó họ định hãm hiếp chị tôi ngay tại đó. Chị tôi sợ run rồi khóc nức nở. Vừa khóc, chị vừa năn nỉ và van xin thật lâu:
-Các anh cũng đáng tuổi em của tui, xin làm ơn tha cho tui đi.
Cuối cùng, họ tha cho chị. Họ xét rất kỹ mà chẳng kiếm được cái gì, vì còn gì nữa đâu mà họ lấy? Rốt cuộc, họ giật hai mẩu bánh mì trên tay cháu tôi. Hai mẩu bánh mì này là do quà của anh dẫn đường cho cháu tôi. Bọn họ bảo:
-Chắc là có dấu đồ trong bánh mì rồi. Có phải dấu đồ trong bánh mì không?
Tôi nghĩ chắc họ ở đây cũng thèm bánh mì nên mới lấy bánh mì của cháu tôi để mà ăn. Thế rồi họ cứ kéo dài việc lục soát. Chúng tôi sợ càng kéo dài càng nguy hiểm vì lỡ đồng bọn họ kéo tới thêm nữa thì còn khó mà thoát hơn. Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra là trong cổ tôi còn có một tượng Phật bằng ngà bọc vàng tây. Tôi đeo tượng Phật để mong được Phật độ trì và che chở. Tôi dùng sợi dây tròn trắng mà binh lính thường đeo thẻ số quân để đeo tượng vào cổ. Cũng may là bọn Miên cướp đường lúc trước đã xét lục mà chưa tìm ra. Tượng đeo trên cổ, lẫn vào cổ áo mà chúng đã không thấy, kể cũng là lạ thật! Bọn lính cố dùng dằng tìm kiếm đồ quý hay tiền vàng trong quần áo chúng tôi hoặc để cho chúng tôi sợ hãi và sốt ruột mà thòi đồ quý ra cho họ.
Tôi bèn năn nỉ:
-Xin các anh cho chúng tôi đi, bao nhiêu vàng tôi đã giao cho bọn dẫn đường. Còn tiền bạc và đồ qúy giá thì bọn Miên cướp đường lần trước đã lấy hết. Không tin mấy anh hỏi bọn dẫn đường này mà xem.
Nhóm bộ đội nạt lớn:
-Mấy thằng Mán rừng đó làm sao mà hỏi nó được? Nó có biết tiếng Việt gì đâu mà hỏi?
Tuy nói thế nhưng bọn họ cũng tới nạt hỏi bọn người Miên dẫn đường. Họ chỉ lắc đầu quầy quậy chứ chẳng chịu hối lộ tiền cho nhóm bộ đội Việt Nam kia. Tôi thầm nghĩ:
“Mình phải tìm cách đi chứ kéo dài mãi thì chết.”
Thế là tôi nói:
-Tôi còn tượng Phật này, các anh lấy đỡ rồi cho tôi đi!
Vừa nói, tôi vừa tháo gỡ tượng Phật giao cho mấy anh bộ đội để họ cho đi. Cầm tượng Phật xong, họ liền hất hàm ra lệnh:
-Thôi đi đi! Mấy người sao mà gan vậy? Đường này toàn gài mìn hết cả rồi! Bây giờ anh chỉ bọn Miên đi đường bên trái kia kìa. Nếu đi đường bên phải là tiêu luôn đó nghe!
Tôi trả lời:
-Mấy anh làm ơn nói hộ với nhóm người Miên cho họ hiểu, chứ tôi đâu có biết tiếng Miên mà nói với họ?
Bọn họ liền nói một tràng tiếng Miên với những người dẫn đường và chỉ trỏ các lối đi an toàn cho chúng tôi đi. Khi đó, chúng tôi mừng quá vì đã thoát nạn nên vội leo lên xe bò ngay. Xe vừa chuyển bánh thì ba người bộ đội dặn vói:
-Đằng trước còn nhiều trạm bộ đội Việt Nam nữa. Nếu họ có chận hỏi thì làm bộ giả người Miên, nhớ đừng trả lời. Hễ trả lời là chết đó! Thôi đi lẹ lên!
Tôi thầm nghĩ:
”Làm sao mà giả người Miên được? Họ nhìn là biết ngay mình là người Việt. Dấu làm sao được? Từ khuôn mặt đến dáng điệu, nhìn là biết liền.”
Chúng tôi cám ơn họ rối rít rồi đi tiếp. Xe băng rừng và đi độ thêm một hai tiếng đồng hồ gì đó thì chúng tôi gặp một đám lính mặc đồ rằn ri, có mang súng ống đầy đủ. Chúng tôi thoạt đầu mừng quá vì nghĩ rằng chắc đây là:
”Quân ta đây rồi! Đồ quân phục của lính Dù, lính Biệt Động Quân đây mà! Ôi, màu áo quen thuộc, thân thương của quân ta đây!”
Nhưng lúc đến gần, chúng tôi mới biết là lính dù Người Miên. Chúng có cái tên quen thuộc là Para. Chúng là lính của quân đội giải phóng Miên. Bọn chúng xúm lại, kéo chúng tôi khỏi xe bò để dắt vào lùm cây mà xét và cướp của lần nữa. Mặt mũi của bọn Para ra này thật dữ dằn và hung tợn. Thằng nào cũng xâm hình tượng Phật nhỏ đầy mặt, đầy cổ và đầy người. Chúng còn đeo tượng Phật và bùa đỏ đầy trên cổ.
Bọn Para trao đổi lời lẽ với những người đi xe bò dẫn đường và muốn đuổi họ đi. Nhưng bọn họ không đi mà cứ đứng nấn ná đợi chúng tôi. Bọn Para thì cứ xua tay đuổi bọn kia đi để chúng dễ bề xét người và cướp của trên người của chúng tôi.
Chúng chia nhỏ toán quân và dò xét quanh vùng. Một vài tên lính Para biết tiếng Việt lõm bõm, chúng bèn hỏi chúng tôi với giọng lơ lớ và sai văn phạm, nghe thấy thật buồn cười:
-Có gặp bộ đội Việt Nam không? Bộ đội Việt Nam đông không? Họ có những súng gì?
Rồi chúng lại tiếp tục xét người chúng tôi. Chúng tôi lại phải bị lột quần áo và đứng tơ hơ. Tụi này khám rất kỹ, kể cả hậu môn và chỗ kín chúng cũng không bỏ qua. Lại một thằng Para Miên lấy súng lục kê cạnh tai tôi và hỏi gằn:
-Bộ đội Việt Nam phải không? Bộ đội hay nhân dân Việt nam?
Tôi sợ quá, run cầm cập mà trả lời:
-Tôi là dân Việt Nam đi vượt biên, chứ không phải bộ đội Việt Nam.
Hắn hỏi gằn đi gằn lại:
-Thiệt không? Nói láo bị bắn chết ngay! Khai thiệt đi, nhanh lên!
Cứ thế, nó dọa nạt tôi đủ thứ. Lúc ấy, trong túi quần tôi còn một cái dụng cụ ngoáy tai bằng bạc mà tôi giữ làm kỷ niệm đã lâu. Thằng Para này đòi lấy, tôi cũng đưa luôn. Tiếc gì nữa mà giữ lại? Cháu nhỏ của tôi còn một tượng Phật bằng bạc, chúng nó cũng đoạt lấy luôn.
Tìm tòi mãi mà chẳng có gì đáng giá, chúng bèn ra lệnh cho chúng tôi mặc quần áo lại mà đi tiếp với toán quân của chúng. Đi một chập, chúng tôi gặp lại chiếc xe bò cũ, bọn Para lại trao đổi, mặc cả và trả giá gì đó với bọn đi xe bò. Cuối cùng chúng lại đuổi bọn xe bò đi.
Thế là từ đấy, chúng tôi không còn gặp lại chiếc xe bò đó nữa. Trong lòng lo lắng và sợ hãi, chúng tôi chỉ sợ bọn người rừng rú này làm bậy và hãm hiếp chị tôi. Nhưng Trời thương, chúng không hãm hiếp.
Khi đến một nơi tiền đồn, có giao thông hào và đồn phòng thủ, chúng bèn giao chúng tôi cho một toán quân ở nơi đó và bảo đưa chúng tôi đến Non Chan. Bọn lính sau này gặp một xe bò chở nước, chúng nhảy lên xe bò ngồi và cho phép cháu nhỏ của tôi leo lên xe theo. Tay chúng lăm lăm ghìm súng chỉ vào người chúng tôi như muốn sẵn sàng nả đạn vào gia đình tôi.
Trong lúc đó, chị tôi và tôi phải chạy bộ theo dấu xe bò mà đi. Vừa mệt, vừa sợ lạc mất đứa cháu, vừa khát khô cổ nhưng chúng tôi vẫn phải bương bả chạy theo xe bò mà đi. Cơn nắng lên cao, cơn đói khát, nỗi sợ hãi làm chúng tôi mệt đến có thể ngất xỉu ngay tại đó.
Ôi! đường đến với tự do sao quá khổ sở, đầy gian nan thử thách và đầy nguy hiểm như thế này? Chúng tôi lần mò đi để tìm đến vùng Non Chan. Một bước ngoặt của đoạn đời mới đầy tủi nhục và đau thương bắt đầu từ đây!